Trong thực tế, các tranh chấp liên quan đến vay tiền nhưng không trả xảy ra ngày càng phổ biến. Nhiều người cho vay thắc mắc: “Người vay không trả tiền có bị đi tù không?”, “Đây là quan hệ dân sự hay đã cấu thành tội phạm?”.
Bài viết dưới đây sẽ giúp mọi người phân biệt rõ ranh giới giữa tranh chấp dân sự và trách nhiệm hình sự, đặc biệt là tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định của pháp luật Việt Nam.
1. Tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” là gì?
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi người phạm tội nhận tài sản của người khác một cách hợp pháp (thông qua vay, mượn, thuê, giữ hộ hoặc theo hợp đồng), sau đó lợi dụng sự tin tưởng để chiếm đoạt tài sản. Hành vi chiếm đoạt thường thể hiện ở việc bỏ trốn, cố tình không trả dù có khả năng, hoặc sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp.
Cần lưu ý rằng, không phải mọi trường hợp vay tiền không trả đều là tội phạm hình sự. Nếu người vay mất khả năng thanh toán do hoàn cảnh khách quan và không có ý định chiếm đoạt, quan hệ pháp luật sẽ được xác định là tranh chấp dân sự và được giải quyết thông qua con đường tố tụng dân sự tại Tòa án.
2. Vay tiền không trả luôn là tội phạm?
Không phải mọi trường hợp vay tiền nhưng không trả đều cấu thành tội phạm. Về nguyên tắc, quan hệ vay tiền là quan hệ dân sự, do đó việc không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ trước hết được xem là tranh chấp dân sự và được giải quyết theo quy định của pháp luật dân sự.
Trong trường hợp này, người cho vay có quyền khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu bên vay thanh toán khoản nợ, yêu cầu trả lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ, đồng thời đề nghị cơ quan thi hành án áp dụng các biện pháp cưỡng chế theo quy định pháp luật nhằm bảo đảm việc thu hồi nợ.
Chỉ khi người vay lợi dụng sự tin tưởng của bên cho vay để cố ý chiếm đoạt tài sản, thể hiện qua các hành vi như bỏ trốn, gian dối hoặc cố tình không trả dù có khả năng thanh toán, thì hành vi này mới vượt ra ngoài phạm vi dân sự và có thể bị xem xét xử lý trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự.
3. Khi nào vay tiền không trả bị coi là tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”?
Theo quy định của pháp luật, một hành vi vay tiền chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi đồng thời thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm theo Điều 175 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).
- Thứ nhất, người vay phải nhận tiền một cách hợp pháp. Việc giao tiền ban đầu được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, thông qua các hình thức hợp pháp như hợp đồng vay, giấy vay tiền, chuyển khoản ngân hàng, tin nhắn thỏa thuận hoặc có người làm chứng. Tại thời điểm nhận tiền, không có hành vi gian dối nhằm chiếm đoạt ngay từ đầu.
- Thứ hai, sau khi vay phát sinh hành vi chiếm đoạt tài sản. Người vay không chỉ đơn thuần vi phạm nghĩa vụ trả nợ, mà còn có các hành vi thể hiện rõ ý chí chiếm đoạt, chẳng hạn như: sử dụng tiền vay vào mục đích bất hợp pháp (cờ bạc, ma túy…); bỏ trốn để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ; có khả năng trả nhưng cố tình không trả, né tránh, cắt đứt liên lạc; hoặc gian dối về tình trạng tài chính nhằm kéo dài thời gian chiếm giữ tài sản.
- Thứ ba, giá trị tài sản đạt ngưỡng truy cứu trách nhiệm hình sự. Theo Điều 175 Bộ luật Hình sự, tài sản bị chiếm đoạt phải có giá trị từ 4.000.000 đồng trở lên, hoặc dưới mức này nhưng người thực hiện hành vi đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc có tiền án về hành vi chiếm đoạt tài sản mà chưa được xóa án tích.

Chỉ khi hội đủ các yếu tố nêu trên, hành vi vay tiền không trả mới bị coi là tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và có thể bị xử lý bằng chế tài hình sự; ngược lại, nếu thiếu một trong các dấu hiệu này thì quan hệ pháp luật vẫn được xác định là tranh chấp dân sự.
4. Mức xử phạt hành chính và trách nhiệm hình sự đối với hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Về trách nhiệm hình sự
Căn cứ Điều 175 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 35 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự năm 2017), tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định cụ thể như sau:
(1) Người thực hiện một trong các hành vi nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng, hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản, hoặc đã bị kết án về tội này hoặc các tội quy định tại các Điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 Bộ luật Hình sự mà chưa được xóa án tích, hoặc tài sản bị chiếm đoạt là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm, nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
- Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận tài sản thông qua hợp đồng, sau đó dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản, hoặc đến hạn trả mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;
- Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận tài sản theo hợp đồng và sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp, dẫn đến không còn khả năng hoàn trả.
(2) Trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết sau đây thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
- Phạm tội có tổ chức;
- Có tính chất chuyên nghiệp;
- Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
- Sử dụng thủ đoạn xảo quyệt;
- Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
- Tái phạm nguy hiểm.
(3) Phạm tội chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm.
(4) Trường hợp chiếm đoạt tài sản trị giá từ 500.000.000 đồng trở lên, người phạm tội có thể bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.
(5) Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, hoặc bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Theo đó, hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với mức hình phạt cao nhất lên đến 20 năm tù.
Về xử phạt vi phạm hành chính
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 15 Nghị định 144/2021/NĐ-CP, quy định về xử phạt hành vi gây thiệt hại đến tài sản của tổ chức, cá nhân khác, theo đó:
Người có hành vi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản, hoặc đến thời hạn trả tài sản do vay, mượn, thuê hoặc nhận tài sản theo hợp đồng, mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả, thì có thể bị phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng, kèm theo các biện pháp khắc phục hậu quả theo quy định của pháp luật.
Như vậy, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản không phải là việc “vay tiền không trả” đơn thuần, mà là hành vi cố tình chiếm đoạt tài sản sau khi đã được giao tài sản hợp pháp.
Mọi thắc mắc xin vui lòng liên hệ với chúng tôi:
Công ty Luật TNHH Apex Legal (Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Trị)
Số điện thoại: 0969 481 635 (Luật sư Apex Legal)
Địa chỉ: C11 số 8, đường Hương Giang, phường Đồng Hới, tỉnh Quảng Trị
Website: https://luatsuhoidap.com


